Bệnh tim mạch dịch chuyển sang các quốc gia đang phát triển

Trong 3 thập kỷ qua, 70% tổng số ca tử vong toàn cầu là do bệnh không lây nhiễm, trong đó số ca mắc bệnh tim mạch trên toàn cầu đã tăng gấp đôi, vượt 500 triệu người. Theo thống kê của WHO, bệnh tim mạch cướp đi sinh mạng khoảng 19,8 triệu người, chiếm 32% tổng số ca tử vong toàn cầu, trong đó 85% là do nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Tốc độ gia tăng nhanh chóng của bệnh tim mạch là minh chứng rõ rệt cho sự bùng phát thầm lặng của một “đại dịch” toàn cầu về các bệnh không lây nhiễm và đang trở thành một trong những thách thức phát triển lớn nhất của thế kỷ 21, tác động đến mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc.
Phát biểu tại Hội nghị khoa học tim mạch toàn quốc 2025 mới đây, Phó chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, GS.TS. Phạm Mạnh Hùng cho biết theo báo cáo hàng năm về gánh nặng bệnh tim mạch toàn cầu mới nhất (năm 2025), có một số thay đổi trong mô hình bệnh tim mạch và chiến lược chăm sóc bệnh lý này.

Trong đó, các xu hướng thay đổi chính là dịch chuyển từ "giàu" sang "nghèo". Nghĩa là bệnh tim mạch vốn hay gặp ở nước giàu, giờ đã dịch chuyển sang các quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình và thấp. Bệnh cũng dịch chuyển từ cấp tính sang mạn tính, cùng với việc nhiều yếu tố kinh tế, môi trường dẫn đến bệnh lý này.
Theo GS. Hùng, trên toàn thế giới hiện mỗi năm có tới hơn 19 triệu người tử vong do bệnh tim mạch. Tại Việt Nam, con số này là 200.000 người, bằng 1/3 tổng số ca tử vong hằng năm trên cả nước. Trong số các bệnh lý tim mạch, bệnh lý do xơ vữa động mạch hiện chiếm 65% số ca bệnh, mạch vành và đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong.
Đặc biệt, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất dẫn đến các bệnh lý tim mạch. Nếu năm 2000 chỉ có khoảng 10 - 15% người trưởng thành mắc tăng huyết áp thì nay con số này đã tăng lên 25 - 30%. Đáng lo ngại, khoảng 20% người dưới 40 tuổi đã mắc bệnh, nhưng chưa đến một nửa trong số đó được kiểm soát huyết áp ổn định.

Ông Hùng cũng nhận xét Việt Nam cũng như thế giới, vẫn tập trung vào điều trị bệnh nhân ở giai đoạn muộn hơn là phòng ngừa bệnh, các chính sách y tế công cộng về chế độ ăn, kiểm soát thuốc lá, giảm muối và hoạt động thể lực còn thiếu nhất quán hoặc không được thực thi hiệu quả.
"Trong khi chỉ cần thực hành thay đổi lối sống, như kiểm soát chế độ ăn uống, không hút thuốc lá, giảm tối đa hoặc không uống rượu bia, vệ sinh môi trường để giảm ảnh hưởng từ ô nhiễm không khí tới sức khỏe, ngăn ngừa stress là đã giảm được 80% nguy cơ dẫn đến bệnh tim mạch," ông Hùng cho biết.
Điều đáng nói, những bệnh nhân tim mạch có nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm và biến chứng nguy hiểm cao hơn những người không mắc bệnh. Trong khi, các bệnh lý nhiễm trùng cũng nằm trong nhóm 10 nguyên nhân gây tử vong thường gặp nhất, đặc biệt là tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp dưới.
Bệnh truyền nhiễm làm tăng nguy cơ xuất hiện các biến cố nguy hiểm trên bệnh nhân mắc các bệnh lý tim mạch, đặc biệt với người cao tuổi và/hoặc có nhiều bệnh đồng mắc. Đây là mối quan hệ hai chiều giữa hai bệnh lý này, tạo thành một vòng lặp.
Tức là bệnh nền khiến cơ thể trở nên nhạy cảm hơn, dễ mắc các bệnh như cúm, phế cầu, Covid-19… Ở chiều ngược lại, các bệnh truyền nhiễm dễ gây biến chứng, làm tăng các biến cố tim mạch. Do vậy, việc phòng ngừa tốt các bệnh truyền nhiễm là giải pháp quan trọng giúp phá vỡ vòng lặp này.

Trong đó, tiêm chủng là biện pháp phòng ngừa bệnh truyền nhiễm hiệu quả cho bệnh nhân tim mạch. Tại hội nghị, Hội Tim mạch Việt Nam đã ban hành Đồng thuận của Hội để hướng dẫn tiêm vaccine dự phòng cho người trưởng thành mắc các bệnh lý về tim mạch với một số tác nhân virus, vi khuẩn chính như cúm, phế quản, virus hợp bào hô hấp…
Đánh giá về năng lực chẩn đoán các bệnh lý tim mạch, PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng cho hay nhiều đơn vị chuyên khoa tim mạch trong nước đã làm chủ các kỹ thuật cao sánh ngang tầm các nước trong khu vực, nhiều năm qua, người bệnh tim mạch Việt Nam không còn cần phải ra nước ngoài chữa bệnh.
Tuy nhiên trong nước, số lượng bác sĩ chuyên khoa tim mạch thực thụ còn khá ít so với nhu cầu (ước tính hiện chỉ có chưa đến 2.000 bác sĩ chuyên khoa tim mạch thực thụ trên cả nước, với hơn 100 triệu dân); cơ sở hạ tầng và trang thiết bị chưa đồng bộ và còn thiếu.
Về điều trị các bệnh lý tim mạch, các chuyên gia cho biết xu hướng mới nhất là can thiệp ít xâm lấn, hầu hết các bệnh lý trước đây cần mổ mở thì nay đã có thể can thiệp hoặc nội soi. Thứ hai, đó là xu hướng sử dụng AI để hỗ trợ trong điều trị, đến nay đã có nghiên cứu chứng minh hiệu quả. Xu hướng thứ ba là can thiệp bằng các vật liệu di truyền và gene.
PGS. TS. Nguyễn Sinh Hiền, Chủ tịch Hội Tim mạch Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội phẫu thuật tim mạch Việt Nam, thông tin tại Bệnh viện Tim Hà Nội, năm 2024 có gần 600 nghìn lượt bệnh nhân đến khám, phẫu thuật cho 2.338 ca và thực hiện can thiệp là hơn 12 nghìn ca. Hiện tại, PGS. TS. Nguyễn Sinh Hiền cùng các đồng nghiệp có thể thay quai động mạch chủ, thay lóc tách toàn bộ động mạch chủ ngực, tạo thêm nhiều cơ hội sống cho bệnh nhân.

Các bác sĩ cũng đã áp dụng kỹ thuật Hybrid (hai phương pháp) kết hợp thay và đặt Stent Graft, tức là vừa mổ nội soi live case, vừa kết hợp tim mạch can thiệp để điều trị những bệnh mà nếu chỉ làm một phương pháp thì tỷ lệ tử vong rất cao. Đặc biệt, rất nhiều bệnh tim mạch kể cả tim bẩm sinh ở trẻ em lẫn người lớn, đều được mổ nội soi, ít xâm lấn.
GS. TS. Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Y tế, đánh giá trong lĩnh vực tim mạch, ngành y tế Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế với nội lực phát triển vững chắc, được hun đúc qua nhiều thế hệ và không ngừng nâng tầm, ngang hàng với khu vực và thế giới. Nhiều bệnh viện trung ương và cấp chuyên sâu đã làm chủ, triển khai thường quy các kỹ thuật y học tiên tiến hàng đầu thế giới.
Các chuyên gia cho rằng để giảm gánh nặng bệnh tim mạch, cần một chiến lược phòng ngừa toàn cầu tích hợp. Cụ thể là phòng ngừa nguyên phát và tiên phát sớm từ tuổi thơ, qua giáo dục sức khỏe cộng đồng. Thúc đẩy chính sách toàn cầu giảm yếu tố nguy cơ: giảm muối, loại bỏ chất béo chuyển hóa, kiểm soát ô nhiễm, hạn chế thực phẩm siêu chế biến. Ứng dụng công nghệ tiên tiến như phân tích dữ liệu lớn (AI) và tính toán nguy cơ cá thể hóa, liệu pháp gene (siRNA, CRISPR) cho nhóm nguy cơ cao…
-Hoài Phương
]]>