Tin tức thị trường

Doanh nghiệp lúa gạo hướng vào phân khúc cao cấp

Tinnhanhck
· 12 giờ trước

Gạo Việt chịu áp lực khi Philippines siết nhập khẩu

Philippines đã áp dụng lệnh dừng nhập khẩu gạo trong hai tháng 9 và 10/2025 nhằm bảo vệ nông dân trước tình trạng giá lúa nội địa sụt giảm mạnh giữa vụ thu hoạch.

Mới đây, Bộ Nông nghiệp Philippines thông báo gia hạn lệnh tạm ngừng thêm ít nhất 30 ngày. Đến tháng 1/2026, nước này sẽ xem xét cho phép nhập khẩu khoảng 300.000 tấn gạo, trước khi có thể tái áp đặt lệnh cấm đến tháng 4/2026 - thời điểm bước vào vụ thu hoạch mới.

Không dừng lại ở đó, Philippines còn tính đến phương án tăng thuế nhập khẩu và cấm các cơ quan nhà nước mua gạo nhập, cho thấy định hướng tự cân bằng cung cầu thay vì phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.

Đối với Việt Nam, Philippines là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất, chiếm 46,7% tổng lượng xuất khẩu năm 2024. Do đó, ngay sau khi nước này công bố ngừng nhập khẩu, tác động đến ngành gạo Việt lập tức diễn ra và rất rõ rệt.

Theo số liệu của Cục Hải quan, trong tháng 9, xuất khẩu gạo chỉ đạt 467.000 tấn, tương đương 232 triệu USD, cùng giảm gần một nửa so với tháng 8. So với cùng kỳ năm ngoái, sản lượng giảm 43,3% và giá trị giảm 54,7%. Riêng sang Philippines, lượng xuất khẩu chỉ còn 32.819 tấn, trị giá 17,56 triệu USD, giảm tới 93,3% về khối lượng và 92,6% về giá trị so với tháng 8. Từ vị trí số 1, Philippines tụt xuống thứ 6, chỉ chiếm 7,03% tỷ trọng (xem bảng).

Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, trong khi doanh nghiệp đã đẩy mạnh thu mua lúa gạo tạm trữ để ổn định giá lúa, hỗ trợ nông dân theo chỉ đạo của Chính phủ, việc Philippines kéo dài lệnh tạm ngừng nhập khẩu khiến nhiều đơn vị rơi vào thế khó vì chi phí lưu kho tăng từng ngày.

Doanh nghiệp xoay trục sang thị trường mới

Trong bối cảnh này, chuyển hướng sang thị trường mới để giảm áp lực từ Philippines là giải pháp cấp bách. Châu Phi đang nổi lên như lựa chọn quan trọng. Ngay trong tháng 9, Ghana vươn lên thành thị trường lớn nhất của gạo Việt với gần 22% thị phần, tiếp đến là Ivory Coast (21,16%) và Malaysia (9,63%), phần nào bù đắp cho sự sụt giảm từ Philippines.

Ngoài ra, Việt Nam vẫn cần duy trì các thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng sang các quốc gia đã ký kết hiệp định thương mại như Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, khu vực Bắc Mỹ...

Tuy vậy, ông Nam đề nghị đẩy nhanh việc giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Với lượng gạo xuất khẩu từ nay đến cuối năm, số tiền cần hoàn khoảng 2.000 tỷ đồng. Trong bối cảnh giá cả khó khăn, doanh nghiệp vay ngân hàng càng thêm áp lực. Nếu không tháo gỡ sớm, sẽ đến lúc doanh nghiệp không còn vốn để xoay xở.

Trước kiến nghị này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công điện yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại tăng cung ứng tín dụng cho doanh nghiệp sản xuất, chế biến, thu mua và xuất khẩu gạo; đồng thời, Bộ Tài chính cần đẩy nhanh hoàn thuế giá trị gia tăng, cải cách thủ tục hải quan và mua gạo dự trữ để hỗ trợ nông dân.

Đề án 1 triệu ha: Hướng đi bền vững cho hạt gạo Việt

Nếu không tháo gỡ vướng mắc về vốn và hoàn thuế, đến một lúc nào đó các doanh nghiệp gạo sẽ không còn đủ lực để xoay xở.

Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam

Để gia tăng cơ hội xuất khẩu, ngành gạo cần tập trung vào phân khúc cao cấp. Trong đó, đề án Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 (Đề án 1 triệu ha) đang mở ra hướng đi mới, không chỉ phục vụ phát triển bền vững mà còn nâng khả năng tiếp cận các thị trường khó tính.

Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An (Trung An, mã TAR) cho biết, đã triển khai đề án tại nhiều địa phương như Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp với quy mô lớn, bài bản. Doanh nghiệp phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, VFA và các tổ chức quốc tế để sản xuất lúa phát thải thấp đạt chuẩn quốc tế, mở hướng đi bền vững cho hạt gạo Việt.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trung An nhận định: “Điều quan trọng nhất của đề án là giảm chi phí sản xuất cho nông dân. Giá thành lúa gạo có cạnh tranh được trên thị trường quốc tế hay không trước hết phụ thuộc vào chi phí sản xuất. Đây là lợi ích thiết thực mà nông dân được hưởng ngay, trước cả câu chuyện tiêu thụ”.

Sau khi thí điểm tại nhiều tỉnh, thành phố, Đề án 1 triệu ha đã có những thành công bước đầu. Tháng 6/2025, lô hàng 500 tấn “Gạo Việt xanh phát thải thấp” đầu tiên đã được xuất khẩu sang Nhật Bản với sự hợp tác của Trung An và Tập đoàn MURASE. Đây được coi là bước đi quan trọng để định vị thương hiệu gạo Việt trên bản đồ thế giới.

Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, sau gần 2 năm triển khai, Đề án 1 triệu ha đã xác định được 942.000 ha vùng chuyên canh, thu hút 1.230 hợp tác xã, tổ hợp tác và 210 doanh nghiệp tham gia, với tổng nhu cầu vốn khoảng 82.989 tỷ đồng cho liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ.

Dù vậy, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời (mã LTG) lưu ý, điểm mấu chốt của đề án là cách thức tổ chức thực hiện. Ông kiến nghị phải tái cơ cấu hợp tác xã và hệ thống khuyến nông để phù hợp với sản xuất quy mô lớn; chính quyền địa phương cần đồng hành chặt chẽ cùng doanh nghiệp và nông dân từ khâu sản xuất đến tiêu thụ.

Cơ giới hóa, số hóa: Chìa khóa nâng sức cạnh tranh

Ngoài ra, yêu cầu cơ giới hóa và số hóa đồng bộ trong sản xuất cũng là vấn đề trọng tâm. Đây là yếu tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của gạo Việt trên thị trường quốc tế.

Tại hội thảo về ứng dụng số hóa và hỗ trợ tài chính cho Đề án 1 triệu ha lúa ngày 15/10/2025, bà Nguyễn Thị Hoàng Yến, Phó cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, nền tảng số dùng chung đã được khởi động nhằm định danh vùng nguyên liệu, kết nối dữ liệu MRV, truy xuất và theo dõi tín dụng, đồng thời thí điểm bảo hiểm nông nghiệp và tín dụng xanh.

Tuy nhiên, việc cơ giới hóa vẫn thiếu đồng bộ, nhiều nơi ở tình trạng “nửa cơ giới hóa”. Chi phí đầu tư máy móc cao, vòng đời thiết bị ngắn, thiếu mô hình thuê - mượn - chia sẻ khiến hợp tác xã gặp khó. Về tín dụng, nhiều hợp tác xã chưa có hồ sơ số hóa, hợp đồng liên kết hay dữ liệu sản xuất, dẫn tới khó thuyết phục các tổ chức tín dụng.

Dù tổng nhu cầu vốn gần 83.000 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân hiện vẫn thấp do thiếu dữ liệu chuẩn hóa để chấm điểm tín nhiệm. Một số ngân hàng đã xây dựng chương trình cho vay liên kết, song nút thắt về dữ liệu và tài sản bảo đảm vẫn cản trở mạnh mẽ, nhất là với khoản đầu tư cơ giới hóa.

Đây là những vướng mắc then chốt cần tháo gỡ để đạt mục tiêu 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phụ thuộc vào một vài thị trường truyền thống và nâng tầm hạt gạo Việt.