Đột phá vốn và năng suất để bứt phá tăng trưởng hai con số

Năm 2025, sự lãnh đạo sâu sát của Đảng cùng sự điều hành quyết liệt, chủ động từ Chính phủ, kinh tế Việt Nam đã vượt qua những 'cơn gió ngược' trước bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm, phân mảnh thương mại gia tăng, xung đột địa chính trị kéo dài, rủi ro tài chính – tiền tệ toàn cầu hiện hữu và trước những ảnh hưởng nghiêm trọng từ thiên tai, bão lũ.
Nhiều quyết sách quan trọng đã được đưa ra. Bộ Chính trị đã ban hành 7 nghị quyết lớn, quan trọng, Quốc hội đã thông qua 47 luật, 8 nghị quyết ngay tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã ban hành và trình ban hành một loạt các dự án luật và các văn bản quy phạm pháp luật, đánh dấu một bước đột phá về thế chế, chính sách và khung khổ pháp luật.
Một dấu mốc quan trọng nữa là công cuộc 'sắp xếp lại giang sơn' và nỗ lực đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, nỗ lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ cơ sở hạ tầng với hàng loạt các dự án chiến lược quy mô lớn, quan trọng, có tính lan tỏa và định hình cho tương lai được triển khai.
Nhờ đó, tăng trưởng GDP năm 2025 ước đạt khoảng 8,01% (theo tính toán của Nhóm nghiên cứu Ban Chính sách, chiến lược Trung ương với các số liệu đến thời điểm hiện tại), thuộc nhóm cao trong khu vực và trên thế giới.
Công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, dẫn dắt tăng trưởng kinh tế với mức tăng đạt khoảng 9,1%, đóng góp 2,72 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP. Đặc biệt, công nghiệp chế biến, chế tạo phục hồi mạnh, tăng trưởng khoảng 9,74%, đóng góp khoảng 2,3 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP, nhờ sự phục hồi của các ngành xuất khẩu chủ lực và sự gia tăng dòng vốn FDI chất lượng cao.
Khu vực dịch vụ tăng tốc rõ nét với tăng trưởng đạt khoảng 8,05%, đóng góp 3,56 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP, nhiều ngành đạt mức tăng trưởng hai con số, phản ánh sự phục hồi của cầu nội địa, du lịch, thương mại và các dịch vụ giá trị gia tăng cao.
Lĩnh vực xây dựng tăng trưởng cao, đạt khoảng 11%, đóng góp 0,73 điểm phần trăm, nhờ đầu tư công và các dự án hạ tầng chiến lược quy mô lớn được đẩy mạnh. Nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ ổn định, tăng trưởng tích cực, đạt khoảng 3,92%, trong bối cảnh chịu tác động của nhiều đợt thiên tai, bão lũ.
Một điểm rất tích cực của năm 2025 là sự phục hồi đồng bộ của các yếu tố tăng trưởng phía cầu. Theo tính toán của Nhóm nghiên cứu, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, tích lũy tài sản cố định đều đạt được mức tăng trưởng rất ấn tượng so với các giai đoạn trước. Trong đó, tiêu dùng cuối cùng dự kiến đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 8,07%, đóng góp 5,13 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP. Thu nhập cải thiện, lạm phát được kiểm soát tạo nền tảng cho sức mua trong nước.
Xuất nhập khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao dù chịu nhiều áp lực từ các chính sách thuế quan thương mại, quy mô thương mại đạt mức kỷ lục gần 900 tỷ USD, đưa Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm 20 nền kinh tế thương mại hàng đầu thế giới. Tích lũy tài sản tăng mạnh cùng với dòng vốn đầu đầu tư lớn. Tốc độ tăng trưởng tích lũy tài sản 2025 đạt khoảng 8,5%, đóng góp 3,06 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP.
Tổng vốn đầu tư phát triển tăng mạnh, ước khoảng 13,5%. Trong đó, đầu tư công giữ vai trò dẫn dắt, quy mô vốn đầu tư công thực hiện dự kiến đạt mức rất cao, khoảng gần 900 nghìn tỷ đồng, tăng 28,6% so với năm 2024, tập trung vào các dự án hạ tầng chiến lược như cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành, các cảng biển và hạ tầng năng lượng. Tính toán của Nhóm nghiên cứu Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho thấy với mức đầu tư công tăng cao năm 2025 giúp tăng trưởng kinh tế gia tăng thêm khoảng 0,587 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở.
Đầu tư tư nhân phục hồi mạnh, tăng khoảng 9,2% so với năm 2024 (mức cao nhất trong 5 năm qua), phản ánh tiềm lực và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đang cải thiện. FDI liên tục tạo các kỷ lục, giải ngân đạt mức cao, chất lượng dòng vốn tốt hơn với khoảng 70% số vốn đăng ký mới tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, chip, bán dẫn, công nghệ mới và năng lượng tái tạo.
Năng suất lao động cải thiện mạnh, đóng góp khoảng 6,9 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP. Đặc biệt, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng cao, đạt tốc độ tăng khoảng 3,76%, đóng góp gần 47% vào tăng trưởng năm 2025 – mức cao so với giai đoạn trước, phản ánh sự chuyển dịch tích cực của mô hình tăng trưởng, với năng suất, hiệu quả gia tăng rõ nét.
Ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục được giữ vững. Lạm phát bình quân năm 2025 được kiểm soát ở mức 3,2–3,5%, nhờ sự điều hành linh hoạt, phù hợp, cùng với sự hỗ trợ của xu hướng giảm giá dầu và giảm các áp lực lạm phát toàn cầu. Nợ công giảm về khoảng 35–36% GDP, thấp hơn đáng kể so với trần cho phép, củng cố an ninh tài chính quốc gia. Tuy nhiên, tỷ giá USD/VND chịu áp lực khá lớn trong bối cảnh chênh lệch lãi suất quốc tế. Dư nợ tín dụng ở mức cao, dự kiến tiệm cận mức 145-148% GDP.
Trên cơ sở các đánh giá, dự báo của các tổ chức kinh tế toàn cầu, Nhóm nghiên cứu Ban Chính sách, chiến lược Trung ương xây dựng ba kịch bản dự báo tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư toàn cầu, gồm: kịch bản kém thuận lợi, kịch bản thuận lợi và kịch bản rất thuận lợi. Ở cả ba kịch bản, dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới có thể tăng nhẹ, đạt mức 2,9-3,3%/năm, song chưa vững chắc, đà phục hồi diễn ra chậm chạp.
Cường độ của các rủi ro địa chính trị, xu hướng bảo hộ thương mại và quá trình tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ tiếp tục gây sức ép lên triển vọng thương mại và đầu tư toàn cầu. Áp lực nợ công và lạm phát toàn cầu ngày càng rõ nét. Bên cạnh đó, một số xu hướng mới đang hình thành và tác động đến kinh tế toàn cầu, như xu hướng hình thành các FTA và các cơ chế hợp tác khu vực mới và xu hướng tăng mạnh đầu tư phát triển và kiểm soát, chống thất thoát công nghệ chiến lược ở một số quốc gia.
Kinh tế Việt Nam, theo đó, đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Trong đó, Việt Nam có cơ hội lớn để đón nhận làn sóng dịch chuyển đầu tư chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ, năng lượng xanh, kinh tế số và công nghiệp hỗ trợ. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tạo cơ hội cho Việt Nam 'bắt nhịp' bứt phá phát triển.
Cạnh tranh chiến lược thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm đối tác mới, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, không chỉ lắp ráp mà còn ở các khâu có giá trị cao hơn như RD, thiết kế, marketing. Vấn đề then chốt là khả năng tận dụng các cơ hội đó, thông qua cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu cũng nhận diện và chỉ ra một số thách thức rất lớn đối với Việt Nam. Đó là, mô hình tăng trưởng của chúng ta mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng nhìn chung vẫn chưa giải quyết được sự thay đổi căn bản. Mô hình tăng trưởng thương mại theo chiều rộng khiến Việt Nam chịu nhiều áp lực rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các nước. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, nguy cơ 'bị bỏ lại phía sau' nếu quá trình 'bắt nhịp', 'đón bắt' các công nghệ không thành công. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao, nhu cầu huy động nguồn lực tài chính là rất lớn. Trong khi Việt Nam vẫn tiếp tục đối mặt với một số vấn đề mang tính cấu trúc, nội tại của nền kinh tế.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đầy đủ các yếu tố tác động, các điều kiện nền tảng cho tăng trưởng và phát triến kinh tế, Nhóm Nghiên cứu Ban Chính sách, chiến lược Trung ương đưa ra ba kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026- 2030, gồm:
(1) Kịch bản cơ sở, giả định duy trì xu hướng phát triển hiện tại, chưa tạo được đột phá mạnh mẽ về thể chế, năng suất và các điều kiện về nguồn lực phát triển. Dự báo tăng trưởng GDP đạt khoảng 7,5%/năm, lạm phát ở mức dưới 4%; quy mô GDP đến năm 2030 đạt khoảng 21,9 triệu tỷ đồng, GDP bình quân đầu người dự báo đạt mức 7.500 USD.
(2) Kịch bản chuyển tiếp, giả định có sự cải thiện rõ nét hơn các điều kiện phát triển, huy động nguồn lực cho đầu tư tăng trưởng tăng cao, công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ chất lượng cao và chuyển đổi số tăng mạnh. Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP có thể đạt khoảng 8,5%/năm, lạm phát duy trì khoảng 4%; quy mô GDP đến năm 2030 ước đạt khoảng 23,1 triệu tỷ đồng; GDP bình quân đầu người ước đạt 7.800 USD.
(3) Kịch bản mục tiêu, yêu cầu tăng trưởng hai con số, khoảng 10%/năm; lạm phát dự kiến ở mức 4-4,5%; quy mô GDP đến năm 2030 ước đạt 24,6 triệu tỷ đồng; GDP bình quân đầu người dự báo đạt mức 8.500 USD. Điều kiện tiên quyết ở kịch bản này là sự bứt phá về mọi mặt: cải cách thể chế, vốn đầu tư, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và năng suất.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số, đòi hỏi sự cải thiện mạnh mẽ ở cả ba khu vực. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cần duy trì mức tăng trưởng khá cao, 3,5%/năm so với mức tăng trưởng cơ sở khoảng 3%/năm. Đây là áp lực rất là lớn trong thời gian tới đối với lĩnh vực nông nghiệp. Khu vực công nghiệp – xây dựng cần tăng trưởng mạnh, khoảng 12,4%/năm, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo bứt phá, tăng trưởng khoảng 12,9%/năm và lĩnh vực xây dựng tăng trưởng đột phá ở mức 12,5%/năm nhờ đẩy mạnh đầu tư công - so với mức tăng trưởng cơ sở lần lượt là 8,7%/năm; 9,3%/năm và 8,5%/năm. Khu vực dịch vụ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi các dịch vụ chất lượng cao và các dịch vụ giá trị gia tăng cao, với tốc độ tăng trưởng đạt 9,5%/năm so với mức cơ sở khoảng 7,5%/năm.
Sử dụng các công cụ định lượng và phân tích dữ liệu Bảng I/O, Nhóm Nghiên cứu xác định 17 ngành, lĩnh vực động lực/ưu tiên (chiếm trên 70% GDP toàn nền kinh tế), dựa trên hai nhóm tiêu chí: (1) Ngành có mức độ lan tỏa đến giá trị gia tăng toàn nền kinh tế cao; (2) Ngành có quy mô lớn, ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng kinh tế (theo xu hướng hiện nay). Trên cơ sở đó, chia thành bốn nhóm ngành, tương ứng với bốn nhóm định hướng phát triển, gồm:
Nhóm ngành dẫn dắt: gồm các ngành, lĩnh vực có độ lan tỏa cao, quy mô lớn, như tài chính - ngân hàng; năng lượng; bán buôn, bán lẻ; vận tải, kho bãi và logistics; nông, lâm, thủy sản.
Nhóm ngành cần thúc đẩy: gồm các ngành có độ lan tỏa mạnh, nhưng quy mô nhỏ, có triển vọng tăng trưởng mạnh, đó là RD và hoạt động khoa học, công nghệ; du lịch và lưu trú; dịch vụ ăn uống; bất động sản.
Nhóm ngành cần nâng cấp chất lượng và vị thế trong chuỗi giá trị: trong đó đặc biệt bao gồm nhóm ngành công nghệ số như điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, viễn thông; xây dựng; sản xuất kim loại và sản phẩm kim loại. Những ngành này hiện nay có đóng góp lớn trong GDP. Một số ngành xuất khẩu cao nhưng nhập khẩu rất lớn, giá trị gia tăng đóng góp trong nước còn thấp, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng, gia tăng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhóm ngành nền tảng, tạo việc làm: gồm nhóm ngành sản xuất, chế biến thực phẩm; dệt may; da giày và sản phẩm liên quan; sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất. Mặc dù độ lan tỏa tới giá trị gia tăng toàn nền kinh tế còn hạn chế, song đây là nhóm ngành có khả năng giải quyết vấn đề căn cốt về việc làm trong tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026 – 2030.
Tính toán chi tiết của Nhóm nghiên cứu cho thấy các ngành động lực nêu trên phải có các điều chỉnh rất lớn, tăng trưởng rất thực chất mới có thể đóng góp, thúc đẩy mức tăng trưởng chung 10%/năm của cả nước. Trong đó, lĩnh vực bán buôn, bán lẻ phải điều chỉnh tăng trưởng tới 3,2 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở, từ mức 7,6%/năm (kịch bản cơ sở) lên 10,8% (kịch bản mục tiêu), tương ứng mức điều chỉnh 3,4 điểm phần trăm so với tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2025 (7,4%/năm); đạt mức đóng góp 1,03 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế.
Lĩnh vực năng lượng với mức điều chỉnh 3,7 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở. Lĩnh vực vận tải, kho bãi và logistics với mức điều chỉnh 2 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở. Lĩnh vực điện tử, máy tính, sản phẩm quang học điều chỉnh mạnh với mức tăng thêm 4 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở và 4,4 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng khá cao hiện nay (10,6%/năm),…
Kinh nghiệm thực tiễn từ các quốc gia trong giai đoạn tăng trưởng cao chỉ ra rằng nhu cầu về vốn để duy trì đà phát triển là vô cùng lớn.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 10%/năm, đồng thời giảm mạnh hệ số ICOR từ 6,5 xuống 4,7 – tương ứng với sự gia tăng đột phá hiệu quả sử dụng vốn, kết quả tính toán cho thấy, tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển trong 5 năm tới khoảng 1.463 tỷ USD (tương đương 38,6 triệu tỷ đồng – gấp khoảng 2,1 lần giai đoạn 2021-2025), chiếm khoảng 40,01% GDP, trung bình mỗi năm cần khoảng 292,6 tỷ USD.
Cơ cấu nguồn vốn được định hướng phân bổ dựa trên các trụ cột chính: Đầu tư từ khu vực nhà nước chiếm khoảng 29%, trong đó, đầu tư công là 22,2% (khoảng 8,58 triệu tỷ đồng); đầu tư từ khu vực FDI khoảng 218 tỷ USD, chiếm khoảng 15,0% - là một yêu cầu khá thách thức trong bối cảnh hiện nay; đầu tư từ khu vực tư nhân phải đảm đương tới 56,0% tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển.
Xem xét các kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế cho thấy vốn tín dụng ngân hàng hiện vẫn là kênh dẫn vốn lớn nhất, chiếm tỷ trọng từ 48-50%; tiếp sau là đầu tư công (16-18%); FDI (15-16%); trái phiếu doanh nghiệp và IPO (12-13%) và cuối cùng là vốn tự có của doanh nghiệp tư nhân và nguồn khác (khoảng 4-5%). Có thể thấy mô hình dẫn vốn dựa vào hệ thống ngân hàng (bank-based) khá rõ. Kênh dẫn vốn qua thị trường vốn còn quá khiêm tốn, chưa thực hiện tốt vai trò kênh dẫn vốn dài hạn của nền kinh tế.
Tính toán của Nhóm nghiên cứu cho thấy hệ số tương quan giữa dư nợ tín dụng và tổng vốn đầu tư phát triển khá lớn, lên tới 4,5-5. Giả định, tương quan này vẫn tiếp diễn trong 2026-2030, với mục tiêu tăng trưởng 10%/năm, nhu cầu vốn đầu tư tương đương 40% GDP, khi đó nhu cầu vốn tín dụng tăng mạnh, dẫn tới dư nợ tín dụng có thể lên đến 180-200%GDP – ẩn chứa nhiều rủi ro, gây áp lực mạnh lên hệ thống ngân hàng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo đó, yêu cầu đặt ra là cần có sự kiểm soát chặt chẽ dòng vốn tín dụng nhằm gia tăng tỷ lệ vốn sử dụng vào sản xuất hay gia tăng tỷ lệ tạo lập tài sản cố định; đồng thời, định hướng các chính sách, giải pháp chiến lược để kích thích khu vực doanh nghiệp, nhà đầu tư huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán và các quỹ nhằm giảm áp lực với tín dụng ngân hàng.
Một vấn đề cốt lõi cần được xem xét kỹ lưỡng đó là khả năng hấp thụ vốn thực tế của nền kinh tế. Mặc dù dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về tăng trưởng hai con số đặt mục tiêu tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở mức 40% GDP, nhưng các tính toán định lượng cho thấy hiệu quả chuyển đổi vốn còn hạn chế. Tính toán ban đầu của Nhóm nghiên cứu cho thấy để đạt được mục tiêu tăng trưởng như kỳ vọng, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động phải ở mức cao hơn, cần khoảng 47% GDP thay vì 40% như dự kiến hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về việc phải tính toán chính xác tỷ lệ vốn thực sự hấp thụ vào sản xuất để tạo ra tăng trưởng thực chất.
Bên cạnh nguồn lực tài chính, mục tiêu tăng trưởng 10%/năm còn phụ thuộc chặt chẽ vào việc nâng cao năng suất nội tại. Trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng lao động đang có xu hướng chậm lại, áp lực đóng góp từ các nhân tố tổng hợp (TFP) là rất lớn. Kết quả tính toán của Nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng để đủ sức hiện thực hóa mục tiêu 10%/năm, đóng góp của TFP phải đạt trên 57% và năng suất lao động xã hội phải tăng trưởng mạnh mẽ trên mức 8,7% mỗi năm.
Nhằm tháo gỡ những nút thắt lớn nhất, khơi thông các điểm nghẽn cho quá trịnh hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số, Nhóm nghiên cứu Ban Chính sách, chiến lược Trung ương đề xuất bốn nhóm giải pháp chính.
Thứ nhất, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trong mọi tình huống, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn là một yêu cầu quan trọng. Đánh giá các kịch bản lạm phát cho thấy lạm phát và kỳ vọng lạm phát ổn định ở mức thấp là một điều kiện quan trọng để duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn 2026-2030.
Kịch bản thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 10%/năm đòi hỏi lạm phát duy trì ổn định khoảng 4%/năm. Nếu lạm phát cao sẽ làm giảm ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế và người dân không được hưởng thành quả tương xứng từ tăng trưởng kinh tế. Ổn định lạm phát sẽ tạo điều kiện cho các cải cách thể chế kinh tế và giúp tín hiệu phân bổ nguồn lực trên thị trường ít bị 'méo mó', đồng thời thúc đẩy phát triển dịch vụ tài chính – ngân hàng.
Phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trên cơ sở 'phân vai' cụ thể hơn.
Theo đó, chính sách tài khóa tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông qua thúc đẩy giải ngân đầu tư công vào các lĩnh vực trọng điểm, có tính lan tỏa cao, các dự án chiến lược, liên kết vùng; tăng chi chuyển giao hỗ trợ tiêu dùng của người dân; giảm thuế hỗ trợ cho các ngành gắn với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; hỗ trợ tiêu dùng của hộ gia đình.
Chính sách tiền tệ linh hoạt, chặt chẽ, tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và phối hợp hiệu quả với chính sách tài khóa. Thực hiện truyền thông chính sách về ổn định lạm phát và ổn định tỷ giá; điều tiết cung tiền hợp lý gắn với mặt bằng lãi suất phù hợp, bảo đảm lãi suất thực dương ít nhất 1%/năm. Duy trì tăng trưởng tín dụng hợp lý (khoảng 15-18%) gắn với phân bổ tín dụng tập trung vào các ngành sản xuất; thử nghiệm có kiểm soát các cơ chế tín dụng cho các lĩnh vực mới (tín dụng xanh, tín dụng dựa trên quyền sở hữu trí tuệ); rà soát và tăng cường tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước,...
Thứ hai, thay đổi mạnh mẽ cách thức huy động nguồn lực tài chính cho nền kinh tế. (1) Thúc đẩy huy động tài chính trên thị trường vốn, thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ và cổ phiếu, nhằm cân bằng với vai trò huy động vốn dài hạn qua hệ thống ngân hàng (bank-based) hiện nay, với một số yêu cầu cụ thể: nâng hạng tín nhiệm quốc gia (lên mức Investment Grade) - rất quan trọng với huy động vốn quốc gia và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đa dạng sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm mới (cố phiếu doanh nghiệp công nghệ số; doanh nghiệp dịch vụ (du lịch, giải trí, truyền thông). Thực hiện mục tiêu nâng hạng thị trường mới nổi MSCI. Có khung khổ quy định, cở mở hơn về tài sản đảm bảo trong phát hành TPDN.
(2) Phát triển ngành quỹ trên cơ sở có sự thay đổi tư duy, nhìn nhận đúng vai trò của ngành quỹ đối với thị trường vốn và nền kinh tế. Bổ sung, xây dựng, điều chỉnh quy định pháp luật liên quan, tạo khung khổ thể chế để phát triển ngành quỹ. Phát triển một số loại hình quỹ phổ biến như: các quỹ mở, quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hạ tầng, quỹ thúc đẩy kinh tế tư nhân/quỹ phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, các quỹ đầu tư quốc gia, quỹ chuyển đổi xanh...
(3) Thực hiện huy động vốn thông qua một số kênh huy động mới, như: thí điểm thị trường carbon; trung tâm tài chính quốc tế; thị trường tài sản mã hóa. Có tư duy mở hơn đối với các định chế cho vay tổng hợp – cấp tín dụng dưới dạng kênh huy động vốn trung, dài hạn.
Thứ ba, tháo gỡ vướng mắc về chính sách. Trong đó, (1) cần đơn giản hóa các thủ tục, đảm bảo hỗ trợ nhanh, gọn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, (2) cần sớm thể chế hóa các chính sách để tháo gỡ khó khăn cho các dự án tồn đọng, chậm triển khai ở các địa phương. Hiện nay Bộ Chính trị đã có Kết luận 182-KL/TW nhưng ở các địa phương vẫn còn rất vướng. (3) Gỡ vướng cho các quỹ khoa học địa phương. Hiện nay các quỹ khoa học địa phương đến tháng 11/2025 mới chỉ giải ngân khoảng 585 tỷ đồng, con số quá thấp so với yêu cầu; quỹ đầu tư cũng chưa phát huy hiệu quả.
Mô hình quỹ khoa học, công nghệ của các địa phương phải có sự thay đổi, cải tiến thì mới đưa được nguồn vốn hiện có vào trong khoa học, công nghệ của các địa phương. Vận hành mô hình quỹ khoa học, công nghệ phải có đổi mới về tư duy và chính sách đột phá, có cơ chế PPP mới trong khoa học, công nghệ.
Thứ tư, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, kích thích các động lực tăng trưởng mới. (1) Thay đổi chiến lược và mô hình xuất khẩu. Thực hiện tiến quân vào thị trường bằng các chương trình 'Go globle' cụ thể, đồng thời thay đổi phương thức hỗ trợ doanh nghiệp trong xuất khẩu, thông qua hỗ trợ thị trường, logistic, bảo hiểm, tư vấn và hỗ trợ kết nối với các tập đoàn đa quốc gia.
(2) Lựa chọn các dự án lớn, động lực của các địa phương. (3) Có chiến lược phát triển phù hợp với các ngành kinh tế động lực, trong đó, thúc đẩy phát triển các ngành các ngành dẫn dắt, các ngành có khả năng lan tỏa cao, như du lịch, RD, logistics, năng lượng, tài chính - ngân hàng. Nâng cấp chất lượng, giá trị gia tăng các ngành điện tử, công nghiệp công nghệ số; dệt may, da giày; chế biến thực phẩm... Trong giai đoạn đầu tăng trưởng cao, cho phép thúc đẩy các ngành trong lĩnh vực xây dựng, bất động sản.
(4) Thúc đẩy phát triển các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới. Trong đó, hoàn thiện cơ chế thử nghiệm để hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mới như kinh tế không gian vũ trụ, kinh tế tầm thấp,... các mô hình kinh tế mới, kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Xây dựng cơ chế, chính sách khai thác không gian vũ trụ, không gian ngầm, không gian biển. Phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp ứng dụng năng lượng nguyên tử, lượng tử.
Xây dựng các chương trình, đề án nghiên cứu khoa học có tính đột phá đối với 11 nhóm công nghệ chiến lược; xây dựng các cơ sở nghiên cứu và phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao như điện tử, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo.
(5) Các giải pháp khác: khai thác tốt không gian tăng trưởng mới; phát triển mạnh thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng thông các hội chợ quy mô lớn về thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; phát huy vai trò các khu thương mại tự do, Trung tâm tài chính quốc tế trong thu hút vốn đầu tư, công nghệ.
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 51-52-2025 phát hành ngày 22-29/12/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://vneconomy.vn/don-doc-tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-5152-2025.htm
-
]]>